Các chuyên gia cho rằng việc TPHCM đề xuất Bộ Y tế cho phép rút ngắn thời gian cách ly tập trung F0 là hợp lý trong tình hình hiện tại.
Tại cuộc họp báo thông tin tình hình dịch bệnh Covid-19 ở TPHCM ngày 22/11, bà Nguyễn Thị Huỳnh Mai, Chánh Văn phòng Sở Y tế TPHCM cho biết, trong số các trường hợp đã tiêm đủ 2 liều vaccine bị mắc Covid-19, có 81% F0 không có triệu chứng và có kết quả xét nghiệm âm tính ở ngày thứ 7, cũng như nhiều ngày sau đó đều có kết quả xét nghiệm âm tính. Các trường hợp này thực chất như người khỏe mạnh bình thường.
Đây là lý do TPHCM kiến nghị Bộ Y tế cho phép địa phương thí điểm rút ngắn thời gian cách ly tập trung xuống còn 7 ngày đối với các trường hợp F0 không có triệu chứng đã tiêm đủ 2 mũi vaccine và có kết quả xét nghiệm âm tính vào ngày thứ 7.
Kiến nghị này được kỳ vọng sẽ giúp gia tăng hiệu quả trong công tác chăm sóc, điều trị F0, duy trì mục tiêu hạn chế các trường hợp bệnh nặng và t.ử v.ong do Covid-19.
Bài Viết Liên Quan
- Lợi ích sức khỏe của thì là
- 8 chiêu thức trị tiêu chảy tại nhà cực đơn giản
- Nghiên cứu mới: Chỉ cần làm việc này có thể giúp mắt sáng hơn, dân văn phòng nên thử
F0 tại TPHCM được đưa đi cách ly tập trung (Ảnh: BSCC).
Cách ly tập trung kéo dài: Nhiều tác hại
Trao đổi với PV Dân trí, PGS.TS Đỗ Văn Dũng, Trưởng khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TPHCM cho biết, khái niệm cách ly tập trung không phải quốc gia nào cũng có. Những quốc gia như Âu Mỹ chỉ yêu cầu bệnh nhân cách ly, theo dõi tại nhà và sau đó nếu bệnh nặng thì đến bệnh viện, bệnh nhẹ vẫn được cho về nhà.
Còn tại các quốc gia Châu Á có tính chất xã hội cao như Singapore, Việt Nam có khuynh hướng cách ly tập trung với 2 mục đích: Giảm lây nhiễm cho những người xung quanh, gia đình, trong cộng đồng và theo dõi sớm được diễn tiến nặng của F0 để xử lý kịp thời.
Tuy nhiên theo chuyên gia, việc cách ly tập trung ở Việt Nam hiện tại còn hơi nhiều. Ở Singapore, dù có cách ly tập trung nhưng 80% F0 được cách ly tại nhà và được hỗ trợ từ lực lượng quân đội.
Cách ly tập trung nhiều sẽ dẫn đến chi phí xã hội lớn, tiêu tốn cho người chăm sóc, người theo dõi cũng như chi phí cho việc tìm nơi cách ly phù hợp. Thứ hai là gây quá tải cho cán bộ y tế, khi bệnh nhân chuyển nặng không đủ nhân lực xử trí.
Thứ ba, cách ly tập trung nhiều cũng làm F0 không hài lòng, không thoải mái vì không được tiện nghi như ở nhà, không tham gia làm việc được, nhất là với những nghề có thể làm việc từ xa (như nhân viên văn phòng, giảng viên, lập trình máy tính…). Ngoài ra, cách ly với thời gian quá dài (trước đây có thời điểm lên đến 21 ngày), F0 sẽ có tâm lý sợ và tìm cách trốn cách ly, không tự giác khai báo.
Do đó, chuyên gia nhận định, việc TPHCM đề xuất Bộ Y tế cho rút ngắn thời gian cách tập trung F0 là hợp lý, cần thiết trong tình hình hiện tại nhưng không nên quá ngắn.
Nhân viên y tế TPHCM đưa F0 có triệu chứng nặng đến khu điều trị, cách ly tập trung (Ảnh: BSCC).
Chuyên gia: Giữ cách ly trong 10 ngày rất quan trọng
Giảm thời gian cách ly tập trung tới đâu là hợp lý? PGS Dũng cho rằng, chỉ nên rút ngắn xuống 10 ngày, thay vì 7 ngày như đề xuất của Sở Y tế. Việc giữ cách ly tập trung trong 10 ngày rất quan trọng, không chỉ đối với việc phòng bệnh, mà còn là vấn đề theo dõi bệnh nhân nặng.
PGS Dũng lý giải, theo kinh nghiệm quốc tế, tất cả các quốc gia có cách ly tập trung đều thực hiện từ 10 ngày trở lên. Như ở Mỹ, hiện nay cách ly F0 trong 10 ngày, kể từ ngày có triệu chứng. Tại Singapore cũng cách ly 10 ngày với người đã tiêm vaccine đủ 2 mũi, kể từ ngày đầu tiên bệnh nhân có triệu chứng. Với người chưa tiêm đủ vaccine thì kéo dài đến 14 ngày.
Nghiên cứu trên những người bị Covid-19 cho thấy, từ ngày 10 phát bệnh trở đi khi đã bớt sốt, giảm hoặc không còn triệu chứng thì trong mũi họng không còn thấy virus phát triển, gây lây nhiễm được hoặc chỉ còn xác virus. Nhưng từ ngày 5-9 của bệnh, vẫn còn 30% mẫu bệnh phẩm chứa virus có khả năng lây nhiễm.
Với mục đích theo dõi tình trạng bệnh nhân, chuyên gia cho biết có khoảng 50% F0 xuất hiện triệu chứng nặng, khó thở từ ngày 7 trở đi. Lúc này nếu đã cho bệnh nhân về thì khó có thể xử lý được.
Chuyên gia đề nghị, nếu không cách ly tập trung thì thôi. Còn đã chọn cách ly F0, hãy cách ly tối thiểu 10 ngày. “Cách ly tập trung 7 ngày hơi ngắn so với thực tiễn” – PGS Dũng lặp lại nhận định.
Ngoài ra PGS Dũng cũng cho biết, không nên áp dụng tiêu chí xét nghiệm để đ.ánh giá việc tiếp tục hay ngừng cách ly F0, mà phải dựa vào vấn đề lâm sàng của bệnh nhân.
Cụ thể, có vào 3 tiêu chuẩn để quyết định F0 có thể xuất viện, ngừng cách ly mà nhiều nước đã áp dụng. Thứ nhất: F0 đã cách ly từ ngày thứ 10 trở đi từ lúc có triệu chứng. Thứ hai: Hết sốt trong vòng 24 giờ dù không dùng thuốc hạ sốt. Thứ ba: các triệu chứng của Covid-19 đồng loạt giảm đi.
Giải thích điều này, PGS Dũng cho biết việc xét nghiệm Covid-19 ở Việt Nam là xét nghiệm RT-PCR để tìm RNA của virus. Có trường hợp đến 3 tuần sau khi xét nghiệm hoặc dài hơn vẫn tìm được RNA. Nếu dùng xét nghiệm này, có thể “nhốt” bệnh nhân trong khu cách ly thời gian dài.
Chuyên gia cho rằng không nên áp dụng tiêu chí xét nghiệm để đ.ánh giá việc tiếp tục hay ngừng cách ly F0 (Ảnh minh họa: BSCC).
Nhận định về đề xuất của TPHCM, bác sĩ Trương Hữu Khanh, nguyên Trưởng khoa Nhiễm – Thần kinh, BV Nhi Đồng 1, chuyên gia truyền nhiễm, đồng tình việc rút ngắn thời gian cách ly sẽ tốt hơn về tâm lý cho bệnh nhân, cũng như giảm tải gánh nặng cho ngành y tế. Riêng về thời gian, ông cho rằng với F0 hoàn toàn không có triệu chứng, đã tiêm 2 mũi vaccine và đã có xét nghiệm âm tính thì chỉ cách ly 7 ngày cũng được.
Theo ThS.BS Đỗ Cao Vân Anh, Phó trưởng bộ môn Nhiễm, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, một số nghiên cứu được đăng tải trên website của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã có phân tích nguy cơ lây truyền liên quan đến triệu chứng khởi phát. Theo đó, nguy cơ lây truyền ước tính là cao nhất ở khoảng thời gian khởi phát triệu chứng và trong 5 ngày đầu tiên của bệnh.
Trong một nghiên cứu của Sia và các cộng sự, những con chuột bị nhiễm SARS-CoV-2 được nhốt chung với những con khỏe mạnh vào ngày một hoặc ngày 6 sau khi nhiễm bệnh. Kết quả cho thấy, sự lây truyền sang chuột khỏe mạnh xảy ra ở nhóm ngày một, nhưng không xảy ra ở nhóm tiếp xúc ngày 6 sau khi nhiễm.
Bác sĩ Vân Anh cho rằng, dù có cơ sở để áp dụng rút ngắn thời gian cách ly, nhưng điều kiện cần và đủ là việc bệnh nhân đã tiêm đủ 2 liều vaccine, mũi 2 tiêm trước khi nhiễm bệnh ít nhất 14 ngày. Ngoài ra, phải có đủ thuốc kháng virus, cũng như thực hiện nghiêm túc việc phát thuốc và giám sát F0 uống thuốc.
7 tác dụng phụ của vaccine COVID-19 bạn có thể phải đối mặt và các cách khắc phục chúng
Đau cánh tay và các triệu chứng giống như cúm chỉ là một số phản ứng khi tiêm vaccine chủng ngừa COVID-19 nhưng có thể khác nhau ở mỗi người.
Tác dụng phụ của vaccine là bình thường
Bác sĩ Katherine L. Baumgarten, Giám đốc y tế về kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh tại Ochsner Health, New Orleans, cho biết tác dụng phụ không phải là bất ngờ, không chỉ với vaccine COVID-19 mà với tất cả các loại vaccine.
Trên thực tế, nhiều tác dụng phụ phổ biến nhất của vaccine COVID-19 cũng giống như chúng ta thấy khi chủng ngừa các bệnh khác. Đó là bởi vì chúng là dấu hiệu cho thấy hệ thống miễn dịch của bạn đang làm những gì nó phải làm, đó là phát triển khả năng chiến đấu chống lại virus thực sự.
Tuy nhiên, rất nhiều người không có tác dụng phụ nào cả. Điều đó không có nghĩa là vaccine không hoạt động, chỉ là nó phản ứng khác nhau ở mỗi người.
Những tác dụng phụ phổ biến của vaccine COVID-19
Đau cánh tay
Cho đến nay, tác dụng phụ phổ biến nhất và ít đáng lo ngại nhất của bất kỳ loại vaccine nào là đau cánh tay, đặc biệt là nơi kim tiêm đ.âm vào. Bạn cũng bị đỏ và sưng một chút.
Cách khắc phục: Cách tốt nhất để đối phó với cánh tay bị đau là đắp một thứ gì đó lạnh, chẳng hạn như khăn ướt hoặc túi đá, lên vùng tiêm. Điều đó có thể giúp giảm đau cánh tay cũng như có thể di chuyển nó xung quanh. Hơn nữa, khi tiêm vaccine, bác sĩ có thể sẽ hỏi bạn muốn tiêm vào cánh tay nào. Bạn có thể chọn bên không thuận của mình để cơn đau nhức không ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bạn.
Sốt
Sốt cũng là một tác dụng phụ thường gặp sau khi chủng ngừa COVID-19. Tuy nhiên, tác dụng này cũng sẽ biến mất sau một hoặc hai ngày.
Cách khắc phục: Sau khi tiêm, bạn có thể uống thuốc giảm đau nếu tác dụng làm suy nhược hoặc khó dung nạp. Nếu bạn bị sốt, hãy nghỉ ngơi và uống nhiều nước.
Mệt mỏi
Mệt mỏi không phải là hiếm sau khi chủng ngừa. Các tác dụng phụ toàn thân khác như đau đầu và đau cơ được thấy nhiều hơn ở phụ nữ và ở những người từ 55 t.uổi trở xuống.
Cách khắc phục: Hãy thư giãn, nghỉ ngơi khi bạn cần, có giấc ngủ ngon và ngủ đủ giấc.
Đau đầu
Một số người nhầm lẫn các tác dụng phụ của vaccine như đau đầu với các triệu chứng của bệnh COVID-19 thực tế. Đây là một lầm tưởng bởi không có cách nào mà một người có thể bị lây nhiễm COVID-19 từ vaccine.
Cách khắc phục: Hãy uống bất kỳ loại thuốc giảm đau nào bạn thường dùng hoặc loại thuốc mà bác sĩ của bạn khuyến nghị. Thông thường đó là NSAID (thuốc chống viêm không steroid như ibuprofen) hoặc acetaminophen. Tuy nhiên, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh CDC khuyến nghị không dùng thuốc giảm đau không kê đơn như acetaminophen hoặc ibuprofen trước khi tiêm, đề phòng chúng cản trở vaccine.
Buồn nôn
Khoảng 3.5% người phàn nàn về cảm giác buồn nôn sau khi tiêm vaccine COVID-19, thậm chí một số người còn bị nôn mửa. Đây là lúc để cung cấp đủ nước cho cơ thể và tìm kiếm bất kỳ giải pháp nào có tác dụng trị buồn nôn trước đây.
Cách khắc phục: Hãy thử nhấm nháp một ly nước gừng hoặc sử dụng các loại thuốc không kê đơn để điều trị chứng đầy bụng, chẳng hạn như Pepto Bismol.
Đau cơ
Một vài người cũng báo cáo đau nhức cơ thể và đau cơ sau khi chủng ngừa.
Cách khắc phục: Nếu cơn đau quá nhiều, hãy tìm đến cùng một loại thuốc giảm đau mà bạn có thể sử dụng để trị đau đầu, cụ thể là NSAID hoặc acetaminophen. Ngoài ra bạn có thể ăn nghệ để giảm tác dụng phụ này. Được biết, nghệ chứa nhiều chất chống oxy hóa, giúp thư giãn các cơ bị đau và chữa lành vết thương.
Sưng hạch bạch huyết
Không giống như các tác dụng phụ khác của vaccine thường chỉ kéo dài một hoặc hai ngày, các hạch bạch huyết bị sưng mất nhiều thời gian hơn một chút để giải quyết so với các tác dụng phụ thông thường khác.
Trên thực tế, các chuyên gia khuyên bạn nên trì hoãn việc chụp quang tuyến vú từ 4 – 6 tuần sau khi tiêm vaccine COVID-19 vì các hạch bạch huyết sưng lên ở nách có thể dẫn đến dương tính giả trên phim chụp quang tuyến vú.
Cách khắc phục: Nếu các hạch bị mềm và đau, hãy thử dùng thuốc giảm đau không kê đơn và nên tham khảo sự tư vấn của bác sĩ./.