Một thang thuốc được sắc đúng phương pháp, nhưng cách uống thuốc, thời gian uống, độ nóng thích hợp của thuốc sẽ giúp nâng cao hiệu quả chữa bệnh…
Khi uống thuốc Đông y, chúng ta cần lưu ý một số vấn đề sau:
1. Số lần uống thuốc
Thông thường, mỗi thang thuốc được sắc 2 lần (2 nước). Nếu muốn tận dụng dược liệu thì sắc 3 lần (3 nước). Để hàm lượng, nồng độ thuốc trong mỗi lần uống giống như nhau, cần hợp hai (hoặc ba) nước thuốc lại với nhau, quấy đều. Sau đó, tùy theo bệnh tình và thể chất người bệnh, có thể chia ra uống trong ngày (uống ngay một lần hoặc uống nhiều lần).
– Chia uống trong ngày: Chia thuốcthành 2-3 phần bằng nhau, uống ngày 2-3 lần; có thể áp dụng trong trường hợp bệnh tương đối nhẹ, hoặc bệnh mạn tính.
– Uống ngay một lần:Hợp các nước sắc của một thang thuốc lại với nhau, uống hết một lần. Cách uống này hay sử dụng đối với loại thuốc phát hãn (làm ra mồ hôi để giải cảm, giải độc), thuốc tả hạ (tẩy, thông tiện mạnh) và thuốc thanh nhiệt; thích hợp với những trường hợp bệnh nặng, với mục đích tập trung sức thuốc, để có thể mang lại hiệu quả nhanh chóng.
Bài Viết Liên Quan
- Nhiều bể nước có khí độc như xyanua, lưu ý khi thau dọn để không t.hiệt m.ạng
- Số ca đột quỵ gia tăng, bác sĩ kêu gọi người dân đừng chủ quan với cao huyết áp
- Hãy tận dụng dinh dưỡng từ su hào
Cách uống thuốc, thời gian uống, độ nóng thích hợp của thuốc sẽ giúp nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
– Uống nhiều lần: Uống tùy thích, uống từng ít một mà nhiều lần, giống như uống trà, thường áp dụng đối với một số trường hợp sau:
Người có thể chất vị khí hư nhược, dạ dày hấp thụ yếu, không chịu nổi tác động mạnh của thuốc;
Bệnh nhân bị nôn nặng, uống lượng lớn sẽ nôn ngược ra và làm mất thời cơ chữa trị.
Đối với những chứng bệnh ở phía trên cơ hoành, như đau họng, đau răng, viêm lưỡi, bệnh mắt; uống dần từng ít một sẽ tạo điều kiện để thuốc tiếp xúc trực tiếp với ổ bệnh.
2. Thời điểm uống thuốc
– Uống thuốc trước bữa ăn: Một số loại thuốc như thuốc trừ thấp lợi thủy, thuốc tả hạ (tẩy), thuốc khu trùng (trừ giun, sán…), uống lúc đói hoặc sáng sớm, cũng sẽ có tác dụng mạnh hơn. Sáng sớm vừa ngủ dậy hoặc trước bữa ăn khoảng 30-50 phút… khi dạ dày đang trống rỗng, do đó uống thuốc tư bổ vào sẽ hấp thu tốt hơn.
Đối với những chứng bệnh ở phần dưới cơ thể, uống trước bữa ăn thuốc không bị thức ăn cản trở, không bị giữ lại ở thượng tiêu (phần trên cơ thể), mượn sức của thức ăn để đưa thuốc xuống thẳng hạ tiêu.
– Uống thuốc sau bữa ăn: Với những thang thuốc gồm có một số vị thuốc kích thích dạ dày, thuốc phát hãn giải biểu (giải cảm), thuốc điều trị những chứng bệnh ở thượng tiêu nên uống sau bữa ăn 20-30 phút.
Huyết dụ, vị thuốc chỉ huyết (cầm m.áu) nên uống lạnh.
3. Nhiệt độ của thuốc
Độ nóng (nhiệt độ) của thuốc có ảnh hưởng nhất định đến tác dụng của thuốc:
– Uống nóng: Để chữa bệnh có tính hàn, cần dùng loại thuốc có tính nhiệt và uống nóng.
– Uống ấm: Nói chung, các loại thuốc thang đều nên uống khi nước thuốc âm ấm. Đặc biệt là đối với loại thuốc điều hòa khí huyết, bồi bổ tạng phủ, bồi dưỡng thể chất, an định tâm thần, thì không nên uống lạnh, cũng không nên uống nóng, mà chỉ nên uống ấm. Ngoài ra, trong thang thuốc có một số vị thuốc có tính kích thích đối với dạ dày, ruột, như qua lâu nhân, nhũ hương, một dược… uống ấm sẽ giảm bớt sự kích thích đối với đường ruột.
– Uống lạnh: Các loại thuốc thang nên uống lạnh thường áp dụng với loại thuốc chỉ huyết (cầm m.áu), thu sáp (làm co lại), điền cố (chữa hoạt tinh, tiểu nhiều lần)… để có thể kéo dài thêm thời gian tác dụng của thuốc.
Để chữa bệnh nhiệt nên dùng thuốc có tính hàn và uống lạnh hoặc trong trường hợp người bệnh bị nôn hay thời tiết mùa hạ cần uống lạnh.
Kỹ thuật sắc thuốc trong Đông y
Sắc thuốc là một việc quan trọng, không thể xem nhẹ vì cách sắc và uống thuốc có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và tác dụng điều trị.
Sắc thuốc có liên quan đến lượng nước, nhiệt độ và thời gian. Để nâng cao hiệu quả và tác dụng của thuốc cần sắc thuốc đúng cách. Trước khi sắc thuốc, tốt nhất nên ngâm thuốc trong nước lạnh 30-60 phút, để cho các vị thuốc ngấm nước, nở ra, khiến các chất trong vị thuốc dễ hòa tan vào dung dịch khi sắc.
1. Lượng nước khi sắc thuốc
Nước dùng để sắc thuốc là nước tinh khiết, không bị ô nhiễm. Lượng nước cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thang thuốc. Nước quá nhiều, thời gian đun kéo dài, có thể làm tổn thất hoặc phá hủy mất một số hoạt chất trong thuốc. Ngược lại, nước quá ít, sẽ khiến các hoạt chất trong thuốc khó hòa tan vào trong nước thuốc. Thực ra, lượng nước nhiều hay ít là tùy thuộc vào trọng lượng, thể tích và tính thấm nước của các vị thuốc trong thang thuốc.
Khối lượng thuốc bằng nhau, nhưng nếu chất thuốc mềm xốp, có độ hút nước cao, cần tăng thêm nước. Chất thuốc chắc đặc, độ hút nước thấp nên giảm bớt nước đi. Trong thang thuốc có nhiều thứ lá, hoa (chất nhẹ xốp) cần tăng thêm nước. Thuốc có nhiều loại rễ, củ, khoáng vật nên giảm bớt nước đi.
Nhìn chung phần lớn các loại thuốc, sau khi cho thuốc vào nồi hoặc vào ấm, có thể đổ một lượng nước sao cho nước ngập trên mặt thuốc khoảng 2-5 cm. Lượng nước chắt ra sau khi sắc xong lại phụ thuộc vào nhiệt độ và thời gian sắc.
Sắc thuốc có liên quan đến lượng nước, nhiệt độ và thời gian.
2. Nhiệt độ khi sắc thuốc
Nhiệt độ khi đun thuốc có ảnh hưởng lớn đến chất lượng thuốc, do đó cần chú ý theo dõi để có thể xử lý kịp thời.
– Nhiệt độ (lửa) quá lớn, có thể làm cho nước thuốc trào ra ngoài, gây lãng phí và phần thuốc dưới đáy nồi bị cháy. Thuốc bị cháy chất thuốc cũng bị thay đổi, cần phải bỏ đi, không nên cho thêm nước vào đun lại.
– Nhiệt độ quá nhỏ thì không đủ độ nóng để hòa tan các hoạt chất của thuốc nên hiệu quả của thuốc cũng bị giảm đi.
– Khi đun thuốc cần đậy vung kín. Nếu dùng lửa nhỏ mà mở vung, thì nước không sôi lên được, phần thuốc phía trên khô và trương lên, phần thuốc ở dưới lại rất dễ bị cháy.
Các thang thuốc đều được sắc theo phương thức: Đun lửa to cho sôi lên, rồi đun nhỏ lửa. Riêng đối với các thang thuốc giải cảm, thanh nhiệt, thuốc có mùi thơm (chứa tinh dầu), cần dùng lửa to nấu nhanh, để tránh tinh dầu bị mất đi quá nhiều. Đối với những loại thuốc bổ, vị đậm, chất thuốc đặc chắc, sau khi dùng lửa to đun sôi, cần dùng lửa nhỏ nấu trong thời gian dài, để cho các chất trong vị thuốc tiết ra triệt để.
Nhiệt độ khi đun thuốc có ảnh hưởng lớn đến chất lượng thuốc.
3. Thời gian sắc thuốc
Thời gian sắc một thang thuốc không cố định, mà tùy thuộc vào loại thuốc, công năng của thuốc. Cụ thể:
– Thuốc bổ: Các thang thuốc bổ thường gồm nhiều vị thuốc từ các loại củ, rễ cây, sừng, mai, xương động vật… Cho nên thường cần sắc kỹ để cho thuốc hòa tan hết vào dung dịch. Với các thang thuốc bổ, cần dùng nhiệt độ cao, đun cho sôi lên, sau đó hạ nhiệt – dùng lửa nhỏ đun kỹ, nước đầu cần sắc trong khoảng 45 phút, các nước sau khoảng 30 phút.
– Thuốc giải cảm (giải biểu): Các thang thuốc giải cảm của Đông y thường bao gồm những loại cây cỏ, như tía tô, kinh giới, bạc hà, kim ngân, liên kiều, ma hoàng, hành, gừng… Khí vị cay thơm (chứa các loại tinh dầu), sắc lâu chất thuốc sẽ bị phát tán mất. Vì vậy, chỉ đổ nước ngập mặt thuốc khoảng 1-2 cm, dùng nhiệt độ cao (lửa to) đun nhanh đun khoảng 10-12 phút, rồi rót ra uống ngay.
– Các thuốc khác: Các thang thuốc chữa bệnh nội khoa như thuốc hoạt huyết (chữa ứ huyết), thuốc thanh can (mát gan), thuốc kiện tỳ (tăng cường tiêu hóa)… cần dùng nhiệt độ cao (lửa to) đun sôi sau đó dùng lửa nhỏ sắc kỹ, nước đầu khoảng 30 phút, các nước sau khoảng 20 phút.
Như vậy, khi sắc thuốc cần chú ý: Lượng nước ban đầu cần đủ để phủ ngập mặt thuốc, khoảng 5cm (trừ thuốc giải cảm khoảng 1-2cm). Nhiệt độ và thời gian sắc tùy thuộc loại thuốc. Sau khi sắc, lượng nước thuốc chắt ra hơi nhiều, có thể cô cho đặc lại, ngược lại lượng nước thuốc ít, hơi đặc, có thể pha thêm nước đun sôi, rồi chia ra uống trong ngày.