Mọi người thường cho rằng chỉ khi nào đau ngực thì mới là bệnh tim. Nhưng thực tế, có những dấu hiệu bệnh tim rất lạ lùng, tưởng chừng như chẳng có gì liên quan.
Gặp rắc rối trong phòng ngủ có thể là do bệnh tim và người gặp tình trạng này có nguy cơ bị đau tim hoặc đột quỵ cao hơn. ẢNH MINH HỌA: SHUTTERSTOCK
Sau đây là những dấu hiệu kỳ lạ tiết lộ tim bạn đang có vấn đề, theo WebMD.
1. Ngưng thở khi ngủ
Khi đang ngủ ngáy mà bị ngừng thở, não có thể không nhận đủ ô xy. Nó sẽ gửi tín hiệu đến các mạch m.áu và tim để làm việc cật lực hơn nhằm giữ cho lưu lượng m.áu được lưu thông. Điều này làm tăng nguy cơ cao huyết áp, nhịp tim bất thường, đột quỵ và suy tim.
Nhưng bạn hãy yên tâm, chứng ngưng thở khi ngủ có thể điều trị được.
2. Nổi mụn sần màu vàng cam
Mức mỡ m.áu quá cao có thể khiến da nổi mụn sần màu vàng quanh các khớp ngón tay, ngón chân và ở mông. Mỡ m.áu cao có thể làm cứng động mạch và làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ, theo WebMD.
3. Sức mạnh cầm nắm của tay kém
Sức mạnh của bàn tay có thể cho biết độ khỏe mạnh của trái tim. Nghiên cứu cho thấy đủ sức cầm chặt vật gì đó có nghĩa là tim đang khỏe. Nếu khó cầm nắm đồ vật, khả năng cao là tim có vấn đề.
4. Vết đen dưới móng tay
Nếu không vì lý do gì mà xuất hiện những chấm m.áu nhỏ bên dưới móng tay có thể chỉ ra tình trạng n.hiễm t.rùng trong niêm mạc tim hoặc n.hiễm t.rùng van tim – gọi là viêm nội tâm mạc.
Đây cũng có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường và người mắc bệnh tiểu đường có nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ cao gấp 2 đến 4 lần.
5. Chóng mặt
Chóng mặt thường là do tim bơm không đủ m.áu lên não. Chóng mặt cũng có thể là dấu hiệu của nhịp tim bất thường. Suy tim cũng có thể khiến đi không vững.
Cảm thấy buồn nôn cũng là một trong những triệu chứng ít được biết đến của cơn đau tim.
Suy tim có thể gây mệt và kiệt sức vì cơ tim không còn đủ sức bơm m.áu đi nuôi khắp cơ thể. ẢNH MINH HỌA: SHUTTERSTOCK
6. Gặp rắc rối trên giường
Gặp rắc rối trong phòng ngủ có thể là do bệnh tim và người gặp tình trạng này có nguy cơ bị đau tim hoặc đột quỵ cao hơn.
Nam giới bị rối loạn chức năng cương có thể gặp các vấn đề về tuần hoàn m.áu do huyết áp cao hoặc động mạch hẹp do tích tụ cholesterol.
Những vấn đề về lưu lượng m.áu này cũng có thể làm giảm ham muốn ở phụ nữ.
7. Ngón tay và ngón chân tím tái hoặc xám
Tình trạng này có thể do m.áu lưu thông kém, thường là do khuyết tật tim bẩm sinh hoặc các mạch m.áu bị thu hẹp hoặc tắc nghẽn.
Các mảng cholesterol tích tụ bị vỡ ra, rồi mắc kẹt trong các mạch m.áu nhỏ làm xuất hiện những đốm mỏng màu tím.
Người bệnh có thể bị các vết m.áu ngay dưới da ở lòng bàn tay và lòng bàn chân khi bị viêm nội tâm mạc.
8. C.hảy m.áu nướu răng
Các nghiên cứu cho thấy c.hảy m.áu nướu răng, sưng hoặc mềm nướu có thể dẫn đến các vấn đề về tim.
Người ta cho rằng vi khuẩn từ nướu răng xâm nhập vào m.áu và gây ra tình trạng viêm trong tim. Bị bệnh nướu răng có thể dẫn đến rụng răng, cũng có thể làm tăng nguy cơ bị đột quỵ.
9. Khó thở
Cảm thấy khó thở có thể là triệu chứng của suy tim, nhịp tim bất thường hoặc đau tim.
Hãy đi khám ngay nếu khó thở sau khi làm những việc trước đây vẫn làm bình thường hoặc nếu cảm thấy khó thở khi nằm xuống. Nếu cũng bị đau ngực, hãy gọi cấp cứu ngay, theo WebMD.
10. Sưng phù chân
Thông thường, đứng hoặc ngồi trong thời gian dài, hoặc mang thai cũng thường gây sưng phù chân. Sự tích tụ chất dịch cũng có thể xuất phát từ suy tim và lưu thông kém ở chân.
Chân bị sưng phù có thể do cục m.áu đông cản trở sự lưu thông m.áu từ chi dưới về tim. Gọi cho bác sĩ ngay lập tức nếu sưng phù chân đột ngột.
11. Mệt mỏi
Suy tim có thể gây mệt và kiệt sức vì cơ tim không còn đủ sức bơm m.áu đi nuôi khắp cơ thể.
Theo dõi các triệu chứng khác, như ho và sưng phù, vì cảm giác mệt mỏi và yếu có thể là dấu hiệu cảnh báo của nhiều bệnh khác nhau, bao gồm thiếu m.áu, ung thư hoặc thậm chí trầm cảm.
Có thể bạn đã bị rối loạn chức năng nuốt mà không biết!
Trong khi đó, các rối loạn về nuốt chiếm tới 49,5% các nguyên nhân gây ra bệnh phổi mạn và ngược lại các bệnh hô hấp mạn tính làm gia tăng tỷ lệ cảm giác nghẹn và vướng ở cổ.
Cơ thể người là một khối thống nhất. Động tác nuốt và thở thường phối hợp với nhau khi đảm nhận chức năng ăn và hô hấp, nhằm tránh để sặc thức ăn vào đường thở, đồng thời cung cấp đủ oxy cho hệ thống hô hấp và các tế bào của các cơ quan trong cơ thể. Các yếu tố làm biến đổi việc cho và nhận oxy và thông khí (như các bệnh hô hấp mạn tính) có thể ảnh hưởng tới sự phối hợp nuốt và thở.
Với 1069 nghiên cứu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và biểu hiện ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn; liên quan đến biểu hiện nuốt, các nhà khoa học đã mô tả được một phần mối tương quan giữa chức năng nuốt và bệnh lý hô hấp. Họ cho rằng các rối loạn về nuốt chiếm tới 49,5% các nguyên nhân gây ra bệnh phổi mạn và ngược lại các bệnh hô hấp mạn tính làm gia tăng tỉ lệ rối loạn chức năng nuốt, gia tăng tỷ lệ cảm giác nghẹn và vướng ở cổ.
Rối loạn nuốt ảnh hưởng tới các bệnh lý hô hấp mạn.
Chúng ta nuốt thức ăn như thế nào?
Nuốt là một trong những phản xạ phức tạp nhất của con người liên quan đến 25 cặp cơ của miệng, họng, thanh quản, và thực quản. Quá trình nuốt có thể được chia thành ba pha liên tục: 1) pha miệng, 2) pha họng và 3) pha thực quản.
Trong suốt pha miệng (pha chủ động) thức ăn sau khi được nghiền nát bởi động tác nhai sẽ tạo thành khối rồi được đẩy vào họng; phần lưỡi gà và khẩu cái mềm đẩy ngang để thức ăn đi vào họng miệng trước khi diễn ra quá trình nuốt. Pha họng (pha thụ động) bắt đầu bằng việc khối thức ăn kích thích các receptor xúc giác của họng miệng, khởi phát quá trình nuốt thụ động, thức ăn được đưa xuống thực quản, trong khi đó không để cho thức ăn bị hít vào đường thở. Trong pha này, khẩu cái mềm nâng lên nhằm ngăn không cho thức ăn trào ngược lên khoang mũi, hai dây thanh khép khiến thanh môn được đóng, thanh quản được kéo lên và sụn nắp đóng lại để bảo vệ đường vào khí quản – phổi. Cuối cùng, cơ thắt thực quản trên mở ra, cho phép thức ăn đi vào thực quản chuyển xuống dạ dày nhờ vào nhu động của thực quản và hệ thống van một chiều.
Rối loạn chức năng nuốt có thể dẫn tới viêm phổi
Luồng dịch hít vào phổi.
Quá trình nuốt cần được phối hợp nhịp nhàng và chính xác với quá trình thông khí do cả hai quá trình đều được diễn ra tại hạ họng (ngã tư giữa đường ăn và đường thở). Ở người trưởng thành, quá trình nuốt diễn ra trong thì thở ra, kéo dài khoảng 0.5-1 giây. Những thay đổi của kiểu thở có thể ảnh hưởng tới quá trình nuốt cũng như sự phối hợp nuốt – thông khí. Thực tế, sự biến đổi thông khí do tăng CO2 hoặc thay đổi cơ chế hô hấp hoặc kháng trở dòng khí làm tăng tần số nuốt và kích thích thực quản dẫn đến rối loạn co bóp thực quản gây cảm giác nghẹn, đầy tức, dọc theo thực quản. Sự suy giảm chức năng nuốt, còn gọi là rối loạn chức năng nuốt có thể dẫn đến viêm phổi hít và suy dinh dưỡng. Rối loạn chức năng nuốt trên bệnh nhân bị bệnh hô hấp mạn tính có thể làm gia tăng số đợt cấp. Do đó, những bệnh nhân này có xu hướng có chức năng thông khí diễn biến xấu đi nhanh chóng và có nguy cơ nhập viện cao hơn.
Với t.rẻ e.m thường xuyên bị viêm phế quản, viêm phổi, viêm phế quản phổi; bên cạnh nguyên nhân dị vật đường thở thì rối loạn chức năng nuốt là một trong những nguyên nhân hay gặp. Ở các trẻ này ta có thể thấy hiện tượng nôn trớ thường xuyên, ngủ không ngon giấc, viêm phổi và phế quản thường xuất hiện ở hai bên (viêm phổi do dị vật bỏ quên thường ở một bên).
Với người có những cơn ngừng thở khi ngủ: Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy khoảng 65% bệnh nhân có cơn ngưng thở khi ngủ có rối loạn chức năng nuốt; nuốt thường xuyên hơn trong quá trình chuyển tiếp giữa hoạt động thở ra và hít vào nhưng không liên quan đến mức độ nặng của cơn ngưng thở khi ngủ.
Với những bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: rối loạn sẽ làm tăng tần xuất đợt cấp của bệnh lý tắc nghẽn hô hấp mạn tính. Một nghiên cứu thống kê về mối liên hệ chặt chẽ, nhiều chiều giữa rối loạn chức năng nuốt và bệnh phổi tắc nghẽn mạn đã các nhà khoa học nghiên cứu và công bố (O’KANE và cộng sự năm 2009, STEIDL và cộng sự năm 2015) cho thấy nếu rối loạn chức năng nuốt, đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tăng lên 17-42% do thời gian đóng đường thở lâu hơn nên bệnh nhân thường hít dịch đường ăn vào đường thở.
Cần sớm phát hiện rối loạn chức năng nuốt
Như vậy, việc phát hiện những rối loạn về chức năng nuốt trên lâm sàng có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị các bệnh lý phổi khó kiểm soát, đồng thời việc phát hiện ra những bệnh lý mạn tính của phổi để phối hợp điều trị cũng góp phần cải thiện các triệu chứng như nuốt nghẹn, nuốt vướng, nuốt khó kéo dài mà không phải do nguyên nhân ung thư ở các vị trí của đường ăn và đường thở./.