Cho dù đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, việc tìm hiểu tất cả thông tin có sẵn có thể khiến người bệnh hiểu hơn.
Dưới đây là tổng quan đơn giản về ung thư vú và các giai đoạn bệnh, phân tích về cách ung thư vú lây lan, chẩn đoán và điều trị.
Ung thư vú xảy ra khi các tế bào ung thư hình thành trong mô vú. Đây là một trong những loại chẩn đoán ung thư phổ biến nhất đối với phụ nữ trên thế giới và nam giới cũng có thể mắc bệnh này.
Theo TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng – Trưởng khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện K trung ương cơ sở Tân Triều, phát hiện sớm đã giúp chẩn đoán ung thư vú và cải thiện tỷ lệ sống sót.
TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng – Trưởng khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện K trung ương cơ sở Tân Triều.
Các triệu chứng có thể bao gồm:
Xuất hiện khối u ở vú, gần xung quanh vú hoặc dưới nách;
Dịch từ núm vú đặc biệt dịch có m.áu;
Vết lõm da vú hoặc dày da vú;
Đau nhức vùng vú hoặc núm vú;
Biểu hiện tụt núm vú;
Vú có sự thay đổi về kích thước và hình dáng;
Da vùng vú, quầng vú hoặc núm vú có vảy, đỏ hoặc sưng;
Vết lõm da vú giống như da quả cam gọi là sần da cam.
Việc tự kiểm tra vú và chụp quang tuyến vú thường xuyên có thể giúp bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi nào khi chúng xảy ra. Nếu nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số này, hãy đi khám ngay.
1. Các giai đoạn của ung thư vú
TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng cho biết, bác sĩ xác định giai đoạn ung thư vú bằng cách xác định xem liệu ung thư là xâm lấn hay không xâm lấn, kích thước của khối u, số lượng hạch bạch huyết bị ảnh hưởng, sự hiện diện của bệnh ung thư ở các bộ phận khác của cơ thể. Bác sĩ có thể cho biết thêm về triển vọng và các lựa chọn điều trị thích hợp sau khi giai đoạn bệnh được xác định thông qua các xét nghiệm khác nhau.
Ung thư vú có 5 giai đoạn.
5 giai đoạn của bệnh ung thư vú là:
Giai đoạn 0 – t.iền ung thư
Ở giai đoạn 0, ung thư được coi là không xâm lấn. Có hai loại ung thư vú giai đoạn 0:
Trong ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ, ung thư được tìm thấy bên trong niêm mạc ống dẫn sữa nhưng chưa lan sang các mô vú khác.
Mặc dù ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ cũng được phân loại là ung thư vú giai đoạn 0 nhưng thực tế nó không được coi là ung thư.
Thay vào đó, nó mô tả các tế bào bất thường đã hình thành trong các tiểu thùy của vú.
Ung thư vú giai đoạn 0 có khả năng điều trị cao.
Giai đoạn 1 – xâm lấn
Ở giai đoạn này, ung thư được coi là xâm lấn nhưng cục bộ. Giai đoạn 1 được chia thành dạng 1A và 1B:
Ở giai đoạn 1A, ung thư nhỏ hơn 2cm. Nó chưa lan đến các hạch bạch huyết xung quanh.
Ở giai đoạn 1B, bác sĩ có thể không tìm thấy khối u ở vú nhưng các hạch bạch huyết có thể có những nhóm tế bào ung thư nhỏ. Các nhóm này có kích thước từ 0,2 đến 2mm.
Giống như giai đoạn 0, ung thư vú giai đoạn 1 có khả năng điều trị cao.
Giai đoạn 2 – tiến triển
Ung thư xâm lấn ở giai đoạn 2 được chia thành 2A và 2B:
Ở giai đoạn 2A, có thể không có khối u nhưng ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết. Ngoài ra, khối u có thể có kích thước nhỏ hơn 2 cm và liên quan đến các hạch bạch huyết. Hoặc khối u có thể có kích thước từ 2 đến 5cm nhưng không liên quan đến các hạch bạch huyết.
Ở giai đoạn 2B, kích thước khối u lớn hơn. Có thể được chẩn đoán mắc bệnh 2B nếu khối u có kích thước từ 2 đến 5 cm và nó đã lan đến bốn hạch bạch huyết trở xuống. Nếu không, khối u có thể lớn hơn 5 cm mà không lan rộng đến hạch bạch huyết.
Ở giai đoạn 2 này cần điều trị mạnh hơn so với các giai đoạn trước, tuy nhiên, triển vọng vẫn tốt.
Giai đoạn 3 – lan rộng
Giai đoạn này được chia thành các tập con 3A, 3B và 3C:
Ở giai đoạn 3A, khối u có thể nhỏ hơn 2 cm nhưng có từ 4 đến 9 hạch bạch huyết bị ảnh hưởng. Kích thước khối u ở giai đoạn này có thể lớn hơn 5 cm và liên quan đến việc tập hợp các tế bào nhỏ trong các hạch bạch huyết. Ung thư cũng có thể đã lan vào các hạch bạch huyết ở nách và xương ức.
Ở giai đoạn 3B, khối u có thể có kích thước bất kỳ. Tại thời điểm này, nó cũng đã lan vào xương ức hoặc da và ảnh hưởng đến 9 hạch bạch huyết.
Ở giai đoạn 3C, ung thư có thể lan đến hơn 10 hạch bạch huyết ngay cả khi không có khối u. Các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng có thể ở gần xương đòn, nách hoặc xương ức.
Các lựa chọn điều trị ở giai đoạn 3 như cắt bỏ vú, xạ vú, liệu pháp hormone và hóa trị.
Những phương pháp điều trị này cũng được cung cấp trong các giai đoạn trước. Bác sĩ có thể đề nghị kết hợp các phương pháp điều trị để có kết quả tốt nhất.
Giai đoạn 4 – di căn
Ở giai đoạn 4, ung thư vú đã di căn. Nói cách khác, nó đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể như não, xương, phổi, gan, các hạch bạch huyết ở xa hoặc thành ngực. Thông thường, ung thư vú di căn được phát hiện sau khi chẩn đoán ung thư vú giai đoạn đầu với tỷ lệ khoảng 6%.
Bác sĩ có thể thử nhiều lựa chọn điều trị khác nhau nhưng ung thư vú giai đoạn IV không thể chữa khỏi. Tiên lượng sẽ xấu đi đáng kể khi khối u đã di căn toàn thân. Thông thường, chỉ có khoảng 22% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn IV sống sót sau 5 năm tiếp theo.
2. Sự lây lan của ung thư vú diễn ra như thế nào?
Có một số cách ung thư có thể lây lan trong cơ thể. Sự xâm lấn trực tiếp xảy ra khi khối u đã lan đến một cơ quan gần đó trong cơ thể. Các tế bào ung thư bén rễ và bắt đầu phát triển ở khu vực mới này.
Sự lây lan bạch huyết xảy ra khi ung thư di chuyển qua hệ thống bạch huyết. Ung thư vú thường liên quan đến các hạch bạch huyết gần đó, do đó ung thư có thể xâm nhập vào hệ thống tuần hoàn bạch huyết và xâm chiếm các bộ phận khác nhau của cơ thể.
Sự lây lan qua đường m.áu di chuyển theo cách tương tự như sự lây lan của bạch huyết nhưng thông qua các mạch m.áu. Các tế bào ung thư di chuyển khắp cơ thể và bén rễ ở những vùng và cơ quan xa xôi.
Khi ung thư bắt đầu ở mô vú, nó thường có thể lan đến các hạch bạch huyết trước khi ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư vú thường lây lan sang xương, não, gan, phổi.
3. Ung thư vú di căn được chẩn đoán như thế nào?
Chụp quang tuyến vú.
Một loạt các xét nghiệm có thể phát hiện sự lây lan của bệnh ung thư. Những xét nghiệm này thường không được thực hiện trừ khi bác sĩ cho rằng ung thư có thể đã lan rộng.
Trước khi yêu cầu, bác sĩ sẽ đ.ánh giá kích thước khối u, sự lan rộng của hạch và các triệu chứng cụ thể mà người bệnh đang gặp phải. Các xét nghiệm phổ biến nhất bao gồm:
Chụp X-quang vú
Quét xương
Chụp CT
Chụp MRI
Siêu âm
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET)
Loại xét nghiệm thực hiện sẽ phụ thuộc vào t.iền sử bệnh và các triệu chứng của người bệnh. Ví dụ, nếu người bệnh hoặc bác sĩ nghi ngờ ung thư có thể đã lan đến bụng sẽ được siêu âm.
Quét CT và MRI giúp bác sĩ hình dung các bộ phận khác nhau của cơ thể cùng một lúc. Chụp PET hữu ích nếu bác sĩ cho rằng ung thư có thể đã lan rộng nhưng không chắc chắn ở đâu.
Tất cả các xét nghiệm này đều tương đối không xâm lấn và không cần phải nằm viện. Người bệnh có thể được hướng dẫn đặc biệt trước khi thử nghiệm. Nếu chụp CT, người bệnh có thể cần uống thuốc cản quang để giúp phác thảo các đặc điểm khác nhau bên trong cơ thể.
Nếu có bất kỳ câu hỏi hoặc thắc mắc nào, đừng ngần ngại đến bệnh viện khám để được tiến hành kiểm tra làm rõ.
4. Di căn được điều trị như thế nào?
Ung thư vú giai đoạn 4 không thể chữa khỏi. Thay vào đó, một khi đã được chẩn đoán, việc điều trị nhằm kéo dài và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Các hình thức điều trị chính cho bệnh ung thư vú giai đoạn 4 bao gồm:
Hóa trị
Xạ trị
Phẫu thuật
Liệu pháp hormone
Liệu pháp nhắm mục tiêu
Các thử nghiệm lâm sàng
Quản lý cơn đau
TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng cho biết thêm, ung thư vú lây lan như thế nào phụ thuộc vào một số yếu tố và tình huống riêng biệt đối với cơ thể và bệnh ung thư. Một khi ung thư lan sang các cơ quan khác thì không có cách chữa trị. Dù thế nào đi nữa, việc điều trị ở giai đoạn 4 có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và thậm chí kéo dài t.uổi thọ của người bệnh.
Bác sĩ là nguồn thông tin tốt nhất để hiểu người bệnh đang ở giai đoạn nào của bệnh ung thư và đề xuất các lựa chọn điều trị tốt nhất dành cho người bệnh ung thư vú.
Nếu nhận thấy một khối u hoặc những thay đổi khác ở ngực, hãy liên hệ với bác sĩ để đặt lịch hẹn. Nếu đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, cần điều trị theo chỉ định của bác sĩ và cho bác sĩ biết nếu bạn bị đau, sưng tấy hoặc các triệu chứng đáng lo ngại khác.
Uống một ly rượu có thực sự làm tăng nguy cơ ung thư vú?
Nhiều người tin rằng, uống một ly vang mỗi ngày có lợi cho sức khỏe, ít ai nghĩ rằng nó làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Theo nghiên cứu, tất cả các loại đồ uống có cồn đều làm tăng nguy cơ ung thư vú. Phụ nữ uống một ly mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư vú tăng từ 7 đến 10%. Ở mức hai đến ba ly mỗi ngày, nó tăng lên 20%. Thực tế, không có mức tiêu thụ rượu an toàn, càng uống ít thì nguy cơ càng thấp.
1. Uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư
Một cuộc khảo sát gần đây do Viện Y tế Quốc gia tài trợ cho thấy hơn 50% người trưởng thành ở Hoa Kỳ không biết rằng uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư, bao gồm cả ung thư vú. Và trong số những người biết về mối liên hệ giữa rượu và ung thư, có niềm tin hoặc nhận thức rằng nguy cơ thay đổi tùy theo loại rượu tiêu thụ, nhưng điều này không đúng.
Tiến sĩ Andrew Seidenberg, người đứng đầu nghiên cứu, công bố trên tạp chí Dịch tễ học ung thư, dấu ấn sinh học và phòng ngừa Hoa Kỳ khi ông còn là thành viên phòng chống ung thư tại Viện Ung thư Quốc gia, cho biết: “Tất cả các loại đồ uống có cồn, bao gồm cả rượu vang đều có thể làm tăng nguy cơ ung thư”.
Tất cả các loại đồ uống có cồn, bao gồm cả rượu vang đều có thể làm tăng nguy cơ ung thư.
Tiến sĩ Andrew Seidenberg hiện là giám đốc nghiên cứu của Truth Initiative, một tổ chức y tế công cộng phi lợi nhuận cho biết thêm uống rượu làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư, bao gồm cả ung thư vú.
Một phân tích tổng hợp được trích dẫn rộng rãi gồm 119 nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ (AICR) và Quỹ Nghiên cứu Ung thư Thế giới được công bố cách đây vài năm đã xác định rằng chỉ tiêu thụ một ly đồ uống có cồn mỗi ngày làm tăng nguy cơ ung thư vú lên 5% ở phụ nữ t.iền mãn kinh và 9% ở phụ nữ sau mãn kinh.
BS. Anne McTiernan, tác giả chính của báo cáo và chuyên gia phòng chống ung thư tại Fred giải thích: “Nguy cơ tăng 5% có thể dẫn đến sự thay đổi không đáng kể trong một năm đối với phụ nữ ở độ t.uổi ba mươi nhưng cao hơn khi ở độ t.uổi bốn mươi”.
Nhìn chung, mức tăng 9% có nghĩa là nếu một phụ nữ bắt đầu với nguy cơ mắc bệnh ung thư vú là 1/8 thông thường trong đời, thì việc uống một ly mỗi ngày trong thời gian dài có thể làm tăng nguy cơ đó lên gần 1/7 và đó là một sự gia tăng đáng kể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, những phụ nữ uống một ly rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc ung thư vú tăng từ 7 đến 10%. Với hai đến ba ly mỗi ngày, phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ ung thư vú tăng lên khoảng 20%.
2. Không có mức tiêu thụ rượu an toàn
Lạm dụng rượu làm tăng nguy cơ ung thư.
Theo báo cáo năm 2023 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố trên tạp chí The Lancet Public Health, không có mức tiêu thụ rượu nào là an toàn. Để xác định mức độ an toàn cần phải có bằng chứng chứng minh rằng không có nguy cơ mắc bệnh ở mức nào đó hoặc dưới mức nhất định và không có bằng chứng nào như vậy.
Tiến sĩ Carina Ferreira-Borges, thuộc Văn phòng khu vực châu Âu của WHO từng cho biết: “Chúng ta không thể nói về cái gọi là mức độ an toàn khi sử dụng rượu – nguy cơ đối với sức khỏe của người uống bắt đầu từ giọt đầu tiên của bất kỳ loại đồ uống có cồn nào. Càng uống nhiều thì càng có hại – hay nói cách khác, bạn uống càng ít thì càng an toàn.”
Rượu đã được Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế xếp vào loại chất gây ung thư nhóm 1 có liên quan đến 7 loại ung thư. Ngoài ung thư vú ở phụ nữ, rượu còn làm tăng nguy cơ ung thư khoang miệng (miệng), hầu họng (họng), thực quản, gan, thanh quản và ung thư đại trực tràng.
Rượu có chứa ethanol, một chất gây ung thư được biết đến và nó có thể thúc đẩy ung thư theo nhiều cách. Ethanol có thể làm tăng nồng độ estrogen, từ đó làm tăng nguy cơ ung thư vú. Sự p.hân h.ủy ethanol trong cơ thể cũng có thể tạo ra lượng acetaldehyde cao, có thể làm hỏng DNA. Bởi vì tất cả các loại đồ uống có cồn đều chứa ethanol nên tất cả đều có nguy cơ.
Mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa uống rượu nhẹ và vừa phải với sức khỏe tim mạch nhưng các chuyên gia cho biết vẫn chưa thể xác định liệu có lợi ích nào là do rượu hay do lựa chọn lối sống lành mạnh cho tim như chế độ ăn uống và tập thể dục lành mạnh hay không. Hơn nữa, nghiên cứu khác đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc tiêu thụ rượu và bệnh tim. Vì những lý do này và vì nguy cơ ung thư đã được xác định và khuyến nghị là không nên uống rượu.
3. Không uống rượu, kết hợp tập thể dục và ăn kiêng làm giảm nguy cơ ung thư vú
Trong khi nguy cơ ung thư vú tăng lên theo mỗi đơn vị rượu được tiêu thụ, thì việc tránh xa rượu sẽ giúp giảm nguy cơ. Trên thực tế, rượu là một trong những yếu tố nguy cơ hàng đầu có thể thay đổi được đối với bệnh ung thư vú. “Nhiều người, kể cả phụ nữ, không biết rằng ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất do rượu gây ra ở phụ nữ trên toàn cầu. Mọi người cần biết rằng bằng cách giảm tiêu thụ rượu, họ có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư”, Marilys Corbex, Tiến sĩ, cán bộ kỹ thuật cấp cao về các bệnh không lây nhiễm tại WHO- châu Âu, cho biết trong một thông cáo truyền thông của WHO.
Không uống rượu, tăng cường rèn luyện sức khỏe và ăn uống lành mạnh là các yếu tố ngăn ngừa bệnh ung thư. Ảnh minh họa.
Tập thể dục và chế độ ăn uống lành mạnh cũng có thể hữu ích. Theo Tiến sĩ McTiernan, một báo cáo AICR năm 2017 lần đầu tiên tiết lộ rằng các bài tập mạnh như chạy hoặc đạp xe nhanh làm giảm nguy cơ mắc cả ung thư vú trước và sau mãn kinh. Bằng chứng rất rõ ràng: Có lối sống năng động, duy trì cân nặng khỏe mạnh trong suốt cuộc đời và hạn chế uống rượu – đây là tất cả những bước phụ nữ có thể thực hiện để giảm nguy cơ ung thư vú.
Một đ.ánh giá chung về các phân tích tổng hợp được công bố vào năm 2023 trên tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng cho thấy rằng tuân theo Chế độ ăn Địa Trung Hải có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú, đặc biệt là ở phụ nữ sau mãn kinh. Chế độ ăn Địa Trung Hải tập trung vào thực phẩm thực vật như rau và trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu và quả hạch, chất béo lành mạnh như dầu ô liu nguyên chất, chọn cá thay vì thịt đỏ. Lựa chọn thịt gia cầm thay vì thịt đỏ hoặc thịt chế biến sẵn cũng có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư vú.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tốt nhất là không nên uống rượu. Những người chọn uống rượu nên hạn chế uống không quá hai ly mỗi ngày đối với nam và một ly mỗi ngày đối với nữ.